Việc giảm lạm phát bằng các chính sách tiền tệ đang diễn ra hết sức khả quan

Việc giảm lạm phát bằng các chính sách tiền tệ đang diễn ra hết sức khả quan

16/02/2021 0 Đào Tùng 219
7 phút, 32 giây để đọc.

Các chính sách về tiền tệ của Nhà nước không những giúp tăng trưởng kinh tế mà còn làm giảm lạm phát

Phát biểu tại Hội nghị, các chuyên gia nhận định năm 2019 là một năm thành công đối với điều hành kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát của Việt Nam. “Việt Nam đã đạt được ‘mục tiêu kép’ trong ba năm liên tiếp; là duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng GDP; tạo thêm dư địa cho an sinh xã hội tốt hơn”. Đó là nhận định của PGS.TS. Nguyễn Bá Minh; Viện trưởng Viện Kinh tế – Tài chính.

Thực tế trong năm qua, tình hình kinh tế quốc tế có nhiều biến động tác động đến thị trường hàng hóa toàn cầu; hàng gia dụng; thị trường tài chính tiền tệ trong nước nhưng nhờ sự điều hành vĩ mô. Và điều hành giá hiệu quả nên CPI bình quân năm 2012 chỉ bằng 2 so với bình quân năm 2018. Tăng 79 %%. Đặc biệt, ‘lạm phát chung có tỷ lệ cao hơn lạm phát cơ bản. Điều này chủ yếu phản ánh sự biến động về giá cả lương thực; thực phẩm; dịch vụ y tế; dịch vụ giáo dục và giá xăng dầu. ‘Lạm phát cơ bản so với những năm trước cho thấy chính sách tiền tệ vẫn đang được điều chỉnh ổn định hơn”; PGS Trí Long lưu ý và cho biết thêm.

giảm Lạm phát

Nhận định của chuyên gia

Mặc dù nói đến câu chuyện lạm phát; không thể không nhắc đến sự phối hợp điều hành kinh tế vĩ mô; trong đó có sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ và công tác quản lý giá. Thế nhưng các chuyên gia cũng đánh giá rất cao công tác điều hành chính sách tiền tệ; đặc biệt là việc điều hành giảm lãi suất đã có tác động tích cực tới tăng trưởng; giảm chi phí sản xuất kinh doanh và giảm lạm phát.

PGS. Nguyễn Bá Minh và PGS. Ngô Trí Long nhấn mạnh: Công tác điều hành chính sách tiền tệ đạt được những kết quả đáng ghi nhận như tín dụng tăng trưởng phù hợp với chỉ tiêu định hướng từ đầu năm; bảo đảm đủ vốn cho tăng trưởng kinh tế; thị trường tiền tệ ổn định; góp phần thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát.

Mặt bằng lãi suất giảm tạo dư địa chống đỡ với các biến động phức tạp từ kinh tế – tài chính toàn cầu. Tín dụng được tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh; các lĩnh vực ưu tiên; đồng thời; kiểm soát tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như kinh doanh bất động sản; chứng khoán. Thị trường ngoại tệ, tỷ giá ổn định trong bối cảnh kinh tế; tài chính thế giới biến động nhanh; phức tạp.

Lạm phát ẩn

Năm 2020, Chính phủ tiếp tục đặt mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4%. Theo nhận định các chuyên gia; có một số yếu tố tác động tích cực đến CPI năm nay như: Nguồn cung các mặt hàng thiết yếu ngày càng tăng; nguồn cung gạo trong nước tương đối dồi dào trong khi tình hình xuất khẩu chưa có nhiều cải thiện nên giá gạo trong nước dự kiến không có nhiều biến động trong thời gian tới; chính sách tiền tệ hiện vẫn đang được điều hành hiệu quả.

Tuy nhiên, việc mục tiêu lạm phát năm 2020 có đạt được hay không còn phụ thuộc chủ yếu vào tốc độ giảm giá thịt lợn trong thời gian tới. “Đáng chú ý là sau cú sốc giá thịt lợn tăng hơn 50% trong quý IV/2019; triển vọng kiềm chế lạm phát dưới 4% trong năm 2020 đã không còn chắc chắn khi CPI của tháng 12/2019 đã tăng 5,23% so với cùng kỳ năm trước”; TS.Nguyễn Đức Độ – Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính phát biểu.

Dự báo của chuyên gia

TS. Độ cũng đưa ra ba kịch bản:

Kịch bản 1: nếu giá thịt lợn giảm mạnh ngay trong tháng Tết nhờ dịch tả lợn châu Phi kết thúc sớm; người nông dân tái đàn thành công; đồng thời Chính phủ bình ổn giá thịt lợn thông qua biện pháp nhập khẩu… lạm phát trung bình năm 2020 có thể chỉ ở mức 3%.

Kịch bản 2: giá thịt lợn vẫn neo ở mức cao như hiện nay trong quý I/2020 do nguồn cung chỉ phục hồi đầy đủ từ quý II/2019 thì lạm phát trung bình cả năm 2020 có thể xoay quanh mức 3,5%.

Kịch bản 3: là kịch bản tệ nhất; nếu dịch tả lợn châu Phi chưa thể kết thúc trong nửa đầu năm 2020 và lạm phát so với cùng kỳ năm trước chỉ bắt đầu giảm từ giữa năm 2020 thì việc kiềm chế lạm phát dưới 4% là tương đối khó khăn.

Trong cả 3 kịch bản nêu trên; các yếu tố khác tác động đến lạm phát như giá dầu; tỷ giá; giá dịch vụ y tế; giáo dục được dự báo thay đổi không lớn. Giá dầu được cho là sẽ vẫn ổn định nhờ nguồn cung dầu đá phiến dồi dào; đồng thời kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại dẫn đến nhu cầu về dầu không cao.

Tỷ giá cũng được dự báo sẽ chỉ dao động khoảng 1% trong năm 2020 nhờ nguồn cung USD dồi dào; dự trữ ngoại hối lớn; đồng thời quan trọng nhất là NHNN sẽ vẫn duy trì chính sách tỷ giá thận trọng nhằm giảm thiểu khả năng Mỹ áp đặt hạn chế thương mại đối với Việt Nam. Giá dịch vụ y tế; giáo dục được dự báo sẽ chỉ điều chỉnh khi Chính phủ nhận thấy mục tiêu kiềm chế lạm phát năm 2020 chắc chắn hoàn thành. Với 3 kịch bản đó, quan điểm của TS.Nguyễn Đức Độ là “CPI được dự báo sẽ tăng trung bình khoảng 3,5% (+/- 0,5%) trong năm 2020”.

chính sach kinh tế giúp kìm hãm Lạm phát

Kết luận của các chuyên gia

Với các dự báo được đưa ra; các chuyên gia đã cùng đề xuất giải pháp kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô với những giải pháp cụ thể về tiền tệ tín dụng; tài khoá; tỷ giá hối đoái; quản lý thị trường và giá cả; thu nhập tiền lương; thương mại… Những giải pháp này không chỉ để thực hiện trong năm 2020 mà còn cần đưa ra lộ trình tiến hành phù hợp nhằm góp phần giúp nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và ổn định trong dài hạn.

Tựu trung lại vẫn là phải có sự quyết tâm, quyết liệt thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ; phải có sự đồng lòng phối hợp nhịp nhàng trong điều hành giữa các bộ; các địa phương. Công tác quản lý, điều hành giá; kiểm soát lạm phát năm 2020 cần tiếp tục thực hiện một cách thận trọng, linh hoạt và chủ động; tiếp tục theo dõi sát diễn biến giá cả thị trường các mặt hàng thiết yếu để kịp thời đề xuất các giải pháp bảo đảm cân đối cung cầu nhằm bình ổn giá cả thị trường.

Nhờ triển khai quyết liệt; đồng bộ các giải pháp nêu trên; từ năm 2016 đến nay; tín dụng đều có mức tăng trưởng dương ngay từ những tháng đầu năm và có mức tăng trưởng bình quân năm trên 16%. Tăng trưởng dư nợ tín dụng năm 2016: 18,25%; năm 2017: 18,28%; năm 2018: 13,89%; năm 2019: 13,65%. Cơ cấu tín dụng có sự điều chỉnh tích cực; trong đó tín dụng tập trung vào lĩnh vực đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế như lĩnh vực SXKD; lĩnh vực ưu tiên.

Tổng kết

Theo báo cáo của Chính phủ, điều hành tín dụng tăng trưởng phù hợp với cân đối vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh; lĩnh vực ưu tiên, tín dụng đối với các lĩnh vực rủi ro được kiểm soát chặt chẽ. Góp phần quan trọng vào việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

“Những năm gần đây, tín dụng tăng trưởng phù hợp, được kiểm soát theo mục tiêu nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức cao, cho thấy các giải pháp, chính sách tín dụng của NHNN đã đi đúng hướng, vừa đảm bảo mở rộng tín dụng hiệu quả, an toàn, cung ứng đủ vốn cho nền kinh tế; vừa phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát”; báo cáo nhấn mạnh./.

Nguồn: tapchinganhang.gov.vn